2025-09-17
Hàm lượng cacbon cao hơn có thể thúc đẩy quá trình than chì hóa vật đúc. Vì than chì có dạng hình cầu nên nó có thể hấp thụ năng lượng trong các ứng dụng cơ học và do đó cải thiện tính chất vật lý của máy móc.
Hàm lượng carbon của sắt dẻo thường cao, khiến nó trở thành hợp kim sắt-cacbon. Đối với gang công nghiệp, hàm lượng cacbon điển hình dao động từ 2% đến 3,9%, với lượng cacbon tương đương từ 4,1% đến 4,7%. Thành phần chính của gangvật đúc sắt dẻo: Thành phần hóa học của sắt dẻo chủ yếu bao gồm 5 nguyên tố phổ biến: lưu huỳnh, phốt pho, silic, cacbon và mangan. Ứng dụng hàm lượng cacbon trongvật đúc sắt dẻo: Điều đặc biệt quan trọng cần lưu ý là khi chuẩn bị vật liệu nóng chảy, nếu thành đúc mỏng và lượng nguyên tố hình cầu còn sót lại lớn hoặc được cấy không đủ thì hàm lượng phải được lấy ở giới hạn trên, nếu không thì nên sử dụng giới hạn dưới. Việc chọn đương lượng cacbon gần điểm eutectic không chỉ cải thiện tính lưu động của sắt nóng chảy mà đối với sắt dẻo, việc tăng đương lượng cacbon còn giúp tăng cường khả năng tự bù của sắt nóng chảy trong quá trình đông đặc do sự giãn nở grafit hóa tăng lên. Tuy nhiên, hàm lượng carbon quá cao có thể dẫn đến than chì nổi.
Do đó, dựa trên quan sát thực nghiệm, giới hạn trên của lượng cacbon tương đương trong sắt dẻo đạt được khi quan sát thấy than chì nổi trong sắt nóng chảy (ở nhiệt độ khoảng 1200°C). Ảnh hưởng của hàm lượng cacbon đến hiệu suất của sắt dẻo: Hàm lượng cacbon trong vật đúc bằng sắt dẻo ảnh hưởng đến lượng than chì kết tủa trong quá trình đông đặc, tức là kích thước hoặc số lượng trung bình của các quả cầu than chì. Thông thường hàm lượng cacbon trongvật đúc sắt dẻonằm trong khoảng từ 2% đến 3,9%, nhưng điều quan trọng là phải hiểu được tác động của việc giảm hàm lượng carbon lên các tính chất cơ học của gang. Điều này cần được xem xét dựa trên kết cấu, kích thước, độ dày thành và sai số về độ dày thành của các thành phẳng liền kề của công trình.vật đúc sắt dẻo. Việc giảm hàm lượng cacbon trong sắt dẻo từ khoảng 4% xuống 2,5% có thể làm tăng nhẹ độ bền kéo và giới hạn chảy (khoảng 23 đến 31 N/mm2) và cũng làm tăng độ giãn dài khoảng 5%, với sự cải thiện đáng kể về giá trị va đập.